Trần Mỹ Duyệt
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội… mà lại nói đó là tự tha cho chính mình. Phải “mắt đền mắt, răng thế răng”, “ăn miếng, trả miếng” mới công bằng!
Một trong những quan niệm tai hại nhất đối với sự tha thứ là quan niệm cho rằng: “Quân tử trả thù mười năm chưa muộn!” Hoặc những câu nói tương tự: “Tôi giận người ấy thâm gan tím ruột. Nếu có thể giết được mà không phải vào tù, tôi đã giết nó”, hay “Sống để bụng, chết mang đi”. Những suy nghĩ như vậy không thay đổi gì về tình trạng hận thù, không làm bớt đi những tội ác xã hội, những hành động do tính tham lam, nham hiểm, và ích kỷ của con người. Ngược lại, chỉ khiến cho việc tha thứ trở nên khó lòng hơn, nếu không muốn nói là không có thể! Nhưng không lẽ do lỗi lầm của người khác mà mình lại mang trong người sự bất an đến bất hạnh? Liệu trong đời sống chẳng có lần ta đã trở thành nạn nhân của chính mình, do những khuyết điểm và yếu đuối của mình? Hoặc cũng do khuyết điểm mà bằng cách này hay cách khác, ta làm cho người khác trở thành nạn nhân của ta? Như vậy cái vòng luẩn quẩn tha, không tha, giận hờn, thù ghét chẳng lẽ cứ đè nặng trên cuộc sống, khiến ta không bao giờ có một giây phút bằng an, vui vẻ và hạnh phúc?
Trong thực tế, nhiều người đã mất ăn, mất ngủ và trở nên điên loạn vì giận hờn, thù ghét. Đối với những người này, trong họ luôn có một ngọn lửa thiêu đốt. Họ không bao giờ có được bình an. Và trên bước đường đời, họ luôn luôn có cảm tưởng như mang một khối đá nặng trên vai.
Truyện kể về một người giữ lòng thù hận. Anh ta cứ khư khư mang mãi mối hận và không tha cho người đã làm mất lòng, đã xúc phạm đến anh. Một ngày kia khi anh đang mệt mỏi bước đi trên con đường nắng gắt. Bỗng anh gặp một ông lão cũng đang rảo bước trên cùng một con đường. Nhìn điệu bộ mệt mã, chán nản của anh, ông liền hỏi:
-Anh đang mang gì trên lưng của mình vậy?
-Tôi có mang gì đâu, tôi đang bước đi một mình ông không thấy sao?
-Không! Tôi muốn nói anh đang suy nghĩ gì mà xem chừng như có một bao sỏi đá đè nặng trên vai anh kìa!
Thấy có người đoán đúng tâm trạng của mình, lại gặp ngay một bóng cây rợp mát bên đường, anh đứng lại và tâm sự:
-Sao ông biết tôi đang có tâm sự? Thật ra, tôi đã mang sự tức giận và buồn bực nhiều năm với người hàng xóm của tôi. Người ấy xúc phạm đến tôi, và khiến tôi mất thể diện với nhiều người trong bà con, dòng họ. Tôi rất giận ông ta.
Nghe anh trải lòng mình, ông lão lúc này mới chậm rãi giải thích:
-Chuyện cũng đã xảy ra lâu rồi, giữ mãi sự thù hận làm chi. Tôi không bảo anh tha ngay cho người hàng xóm đó. Nhưng anh hãy làm theo tôi đề nghị. Hãy tưởng tượng anh đang mang trên vai một bao chứa đầy sỏi đá lớn nhỏ và phải bước đi với nó. Cứ đi khoảng chừng 100 hay 200 mét, anh thò tay vào bao lấy ra một cục rồi ném đi. Chỉ một cục mỗi lần thôi. Khi mệt thì anh ngồi nghỉ và tiếp tục làm như vậy cho đến khi hết, anh sẽ cảm thấy những bước chân tiếp theo sau của anh thật là nhẹ nhõm.
Không phải người thường, mà ngay cả các vị thánh nhân đôi khi cũng có những quan niệm hẹp hòi về sự tha thứ. Thánh Kinh viết: “Bấy giờ Phêrô đến và nói với Ngài: “Thưa Ngài, nếu anh em tôi có lỗi với tôi, tôi phải tha mấy lần? Đến bẩy lần không?” Đức Giêsu nói với ông: “Ta không nói đến bẩy lần, mà đến bẩy mươi lần bẩy lần” (Mt 18:21-22).
Vậy tha thứ là gì mà nó cần thiết và quan trọng đến thế? Tại sao lại phải tha nhiều như vậy?
Tha thứ nghĩa là gì?
Tha thứ là gì? Tha thứ mang nhiều ý nghĩa khác nhau đối với từng người và trong từng trường hợp. Thông thường, tha thứ có liên quan đến quyết tâm để bỏ qua sự giận hờn và cảm xúc đắng đót vì bị đối xử bất công hoặc bị xúc phạm. Hình ảnh và cảm xúc của những hành động làm ta đau khổ, hoặc nhục nhã luôn luôn theo sát ta. Nhưng khi tha thứ là ta bỏ đi những hành động và cảm giác ấy.
Tha thứ, theo cái nhìn tâm lý, là tiến trình tự nguyện hay có suy nghĩ trong đó một người cảm thấy mình là nạn nhân bị đối xử bất công, vượt qua để chuyển đổi ý nghĩ và thái độ từ những chuyện làm cho họ bị đau đớn ấy.
Tha thứ còn có nghĩa là bỏ qua những sợi dây đang trói buộc ta vào điều sai trái ngược lại với mình. Nó cũng có nghĩa là chữa lành và đẩy đời sống tiến về phía trước mà không cho phép giận hờn, buồn bực hoặc suy nghĩ thiếu tích cực làm tiêu hao khả năng hoặc nghị lực của chính ta.
Tha thứ là tha cho chính mình
Tha thứ là một hành động chữa lành. Nó sẽ giúp ta có thể xóa bỏ, hóa giải những tội lỗi hoặc giảm thiểu mức độ sai trái. Đối với người đang chiến đấu để vượt qua những khó khăn về lạm dụng hoặc bất công có thể có những cái nhìn khác nhau. Do đó, người ta không tha thứ, vì sợ nếu tha thứ sẽ làm cho họ trở nên yếu đuối, hoặc nhu nhược.
Nhưng một trong những lợi ích quan trọng nhất của tha thứ là đem lại sự bình an tâm hồn, loại bỏ những cảm giác ích kỷ, hận thù và cay đắng. Giữa những biến cố gây khủng hoảng làm sụp đổ cá nhân, hoặc khi đứng trước một người làm điều gì thiệt hại đến ta, ta thường có cảm tưởng như không muốn làm gì về nó. Nhưng hành động tha thứ giúp ta phục hồi lại sức mạnh. [1]
Khi tức giận, người ta thường bị ảnh hưởng tâm lý tác hại trên thể lý. Không chỉ “giận mất khôn”, nó còn làm cho ăn mất ngon, ngủ không yên giấc. Đôi khi vì giận dữ quá dẫn đến tai biến mạch máu não, hoặc lên cơn đau tim. Trong trường hợp này, tha thứ rõ ràng đem lại mối lợi cho chính mình. Không chỉ về phương diện thể lý, nó còn đem lại bình an, hoan lạc và hạnh phúc cho tâm hồn nữa.
Ngoài giá trị trị liệu về tâm lý, tha thứ còn là một nhân đức, một hành động đạo đức xã hội. Đơn giản là: “Vì nếu các ngươi tha cho những người đã xúc phạm đến các ngươi, Cha các ngươi trên trời cũng tha cho các ngươi. Nhưng nếu các người không tha tội cho người khác, Cha các ngươi cũng sẽ không tha tội cho các ngươi” (Mt 6:14-15). Đã là con người, chúng ta ai cũng có lỗi: trong tư tưởng, lời nói, và việc làm. Lỗi vì sai sót, thiếu đạo đức. Lỗi với trời, với người và với chính mình. Vì thế lời cầu nguyện sau đây mang một ý nghĩa chữa lành hết sức quan trọng: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6:12). Tha thứ để được thứ tha. Đặc biệt, biết tha thứ để tha cho chính mình.
Thực hành tha thứ
Tha thứ là một hành động vừa có tính cách tâm lý, tâm linh và đạo đức nên cần phải có sự tập luyện. Để việc tha thứ trở thành một tập quán tốt, một đức tính tốt, có ít nhất 7 bước cần được suy nghĩ và áp dụng mỗi khi ta gặp bất bình, va chạm hoặc xúc phạm bởi người khác:
-Nhận thức. Đừng lừa dối rằng mình không đau, không nhục hoặc không bị tổn thương. Nhận thức và chấp nhận những cảm xúc ấy. Thông thường khi có người làm gì hại, hoặc xúc phạm đến ta, ta thường có kinh nghiệm thù ghét hoặc trả thù.
-Suy nghĩ. Suy nghĩ trước khi quyết định bất cứ hành động nào, trong đó có hành động trả thù và hành động tha thứ.
-Với quá khứ. Dĩ nhiên, đây là những phút giây mà mình bị tổn thương. Nhưng quá khứ là quá khứ, không để nó ảnh hưởng đến sinh hoạt hiện tại, nhất là khi lỗi lầm đó được lập đi, lập lại.
-Quyết định. Trong đó quyết định lớn lao nhất, đòi hỏi sự hy sinh nhất là quyết định tha thứ cho người đã gây đau khổ, thiệt thòi cho mình. Đặc biệt, là tha cho chính mình. Không để mình phải gánh chịu những gậm nhấm, khổ sở vì lỗi lầm của người khác.
-Sửa đổi. Sửa lại quan niệm và cái nhìn về người đã làm mình phải đau khổ, thiệt thòi. Học nhìn đời bằng cái nhìn tích cực, thân thiện thay vì cay đắng và thiên kiến.
-Học bài học. Rút ra từ bài học bản thân, ta cần phải đặt ra những làn ranh cho sự tha thứ. Thực hành từ những việc làm nhỏ để trở thành một tập quán tha thứ.
-Tha để quên. Tha để quên. Đây là bước cuối cùng và cao nhất của hành động tha thứ. Khi có ai đó xúc phạm đến ta, tuy đã sẵn sàng tha thứ và bỏ qua nhưng lại khó hoặc không quên được cái lỗi hoặc sự thiệt hại mà người ấy đã làm cho mình. Nhưng để đạt được hoa trái bình an của sự tha thứ, thì tha là phải quên. [2]
_________
Tham khảo:
1. https://westcoastrecoverycenters.com › why-is-forgivenes..
Why Is Forgiveness Important In Healing?
2. calmsage.com
https://www.calmsage.com › steps-of-forgiveness
https://thriveworks.com › wp-content › uploads › 2013/08
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?